Anna Pavlovna Pavlova

Anna Pavlovna Pavlova
А́нна Па́вловна Па́влова
Anna Pavlova trong bức vẽ của Ine Veen với hình ảnh "cái chết của con thiên nga"
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
(1881-02-31)31 tháng 2, 1881
Nơi sinh
Ligovo, St. Petersburg
Mất
Ngày mất
23 tháng 1, 1931(1931-01-23) (49 tuổi)
Nơi mất
Den Haag, Zuid-Holland, Hà Lan
Nguyên nhân
ung thư tuyến tụy
An nghỉNhà hỏa táng Golders Green
Giới tínhnữ
Quốc tịchNga
Tôn giáoChính thống giáo phương Đông
Gia đình
Hôn nhân
Victor Dandré
Lĩnh vựcBa lê
Sự nghiệp nghệ thuật
Năm hoạt động1899 – 1931
Đào tạoHọc viện Ballet Nga Vaganova
Giải thưởngHuân chương Cành cọ Hàn lâm Pháp
Chữ ký

Anna Pavlovna Pavlova (tiếng Nga: А́нна Па́вловна Па́влова) (12 tháng 2 năm 1881 [lịch cũ 31 tháng 1) - 23 tháng 1 năm 1931) là nữ diễn viên ballet Nga nổi tiếng vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Pavlova được biết đến rộng rãi như một huyền thoại, đặc biệt qua tác phẩm Cái chết của con thiên nga, và cũng bởi chính bà là nữ nghệ sĩ ballet đầu tiên đi vòng quanh thế giới và đem ballet đến cho những người chưa bao giờ được thưởng thức. Dù có nhiều khuyết điểm về thể hình, nhưng bà lại có được niềm đam mê mạnh mẽ, sự cống hiến tuyệt đối vì nghệ thuật và sức mạnh để chuyển những cảm xúc thông qua những bước nhảy của mình[1]. Cùng với Nijinsky, tên của bà cũng là sự đồng nghĩa với nghệ thuật ballet.

Cuộc đời

Anna Pavlova & Vaslav Nijinsky trong Le Pavillon d’Armide, 1909

Pavlova được sinh non hai tháng vào ngày 12 tháng 2 năm 1881 tại Ligovo, một vùng ngoại ô của St. Petersburg, khi đó là thủ đô của Đế chế Nga. Mẹ bà là một thợ giặt nghèo khổ tên là Lyubov Pavlova. Danh tính của cha bà vẫn còn là một điều gây tranh cãi; bà sau này đã từng khẳng định cha mình (có thể là một người gốc Do Thái[2]), đã mất khi bà lên 8 tuổi. Tờ báo The St. Petersburg Gazette trong bài báo năm 1913 đã quả quyết rằng cha bà là một chủ ngân hàng tên Poliakov, và người chồng thứ hai của mẹ bà, Matvey Pavlov, đã nhận nuôi khi bà lên 3 tuổi, đó là lý do vì sao Pavlova là họ của bà.

Niềm đam mê của Pavlova với nghệ thuật ballet được khơi dậy khi mẹ đưa bà đến xem buổi biểu diễn đầu tiên vở ballet của Marius Petipa mang tên Người đẹp ngủ trong rừngNhà hát Hoàng gia Mariinsky. Những hình ảnh của vở diễn đã gây ấn tượng sâu sắc với Pavlova, và năm 8 tuổi, cô bé đã được mẹ cho đi thi thử vào Trường Ballet Hoàng gia danh tiếng. Pavlova đã bị từ chối bởi tuổi quá nhỏ và vì vóc dáng nhỏ bé, yếu đuối của cô bé. Hai năm sau, lên 10 tuổi, bà đã được chấp nhận vào trường. Bà tham gia biểu diễn lần đầu tiên trong vai một thần ái tình ở vở Câu chuyện thần tiên (Un conte de fées) của Petipa do ông dàn dựng đặc biệt cho các sinh viên ở trường.

Những năm đầu tiên của Pavlova ở trường Ballet Hoàng gia rất khó khăn. Kĩ thuật ballet thật không dễ dàng với Pavlova trẻ tuổi. Bàn chân rất cong, cổ chân mỏng và đôi chân dài của bà tương phản với thể hình nhỏ nhắn, đầy đặn của các ballerina (nữ diễn viên múa) đang rất được ưa thích thời đó. Những sinh viên đồng lứa thường chế nhạo bà với những biệt danh như cái chổi hay con bé hoang dã (La petite sauvage). Không nản chí, bà đã luyện tập không ngừng để nâng cao kĩ thuật múa. Bà đã được nhận rất nhiều bài dạy từ những chuyên gia ballet lớn của thời đó - như Christian Johansson, Pavel GerdtNikolai Legat - và bà đã luyện múa vào tất cả các ngày trong tuần. Năm 1888, Anna được nhận vào lớp classe de perfection (đệ nhất đẳng) của Ekaterina Vazem, cựu prima ballerina của Nhà hát Hoàng gia St. Petersburg.

Bưu thiếp chân dung của Anna Pavlova trong vai công chúa Aspicia ở vở ballet của Petipa/Pugni Con gái của Pharaoh, St. Petersburg, 1910

Trong những năm cuối ở trường Ballet Hoàng gia, bà đã biểu diễn nhiều vai diễn đơn cũng như những vai nhỏ trong nhiều vở ballet lớn thời đó. Bà tốt nghiệp năm 1899 ở tuổi 18, và đã được nhận vào Nhà hát Ballet Hoàng gia với cương vị một coryphée, cao hơn chức danh dành cho người khởi đầu corps de ballet. Vai diễn đầu tiên của coryphée Pavlova ở nhà hát Hoàng gia là ở trong vở Les Dryades prétendues của Pavel Gerdt với âm nhạc được lấy từ phần nhạc của Cesare Pugni viết cho vở ballet trữ tình Éoline, ou La Dryade. Màn biểu diễn của bà đã nhận được những lời khen từ những nhà phê bình, đặc biệt sử gia và nhà phê bình lớn Nikolai Bezobrazov đã dành cho người vũ nữ trẻ tuổi những lời như: "...những bước nhảy tự nhiên, dáng arabesque mỏng manh và sự nữ tính đầy yếu đuối.".

Ở thời kỳ của trường phái kinh viện đầy khắt khe của Petipa, công chúng đầu tiên tỏ thái độ đè dặt trước phong cách độc nhất vô nhị của Anna Pavlova, một sự kết hợp lạ kỳ của một tài năng khiêu vũ khác thường hầu như bỏ qua những quy luật hàn lâm: bà thường xuyên biểu diễn với đầu gối cong, những cú xoay không tốt, những bước đi và port de bras sai chỗ. Phong cách như vây nhiều khi lại khiến người ta nhớ đến thời kỳ của ballet lãng mạn và những ballerina vĩ đại của quá khứ.

Pavlova đã biểu diễn những biến tấu cổ điển, pas de deuxpas de trois khác nhau trong những vở La Camargo, Le Roi Candaule, MarcobombaNgười đẹp ngủ trong rừng. Sự nhiệt tình thường khiến Anna chệch hướng, một lần khi biểu diễn vở La Fille du Pharaon (Con gái của Pharaoh) bên dòng sông Thames, một cú xoay double pique quá mạnh đã khiến bà bị mất thăng bằng, và cuối cùng lại tiếp đất ở chỗ ngồi của người nhắc vở. Đôi cổ chân yếu đuối đã đặc biệt gây cho bà khó khăn khi đóng vai nàng tiên Candide trong Người đẹp ngủ trong rừng, dẫn đến việc bà thay đổi bước nhảy en pointe (đứng bằng ngón chân) và điều này lại gây ngạc nhiên cho ông thầy Petipa. Tuy nhiên, bà đã từng cố gắng bắt chước những nghệ sĩ ballet bậc thầy thời đó, đặc biệt là prima ballerina assoluta Pierina Legnani của Nhà hát Hoàng gia. Một lần trong lớp bà cố gắng thực hiện động tác xoay fouettés giống như Legnani, và đã khiến thầy giáo Pavel Gerdt nhảy bổ lên giận dữ. Ông kêu lên: "Hãy để màn nhào lộn cho người khác... Điều đó sẽ tốt hơn là khiến tôi phải chịu đựng việc thấy sự đè năng của những bước nhảy lên cơ bắp mỏng manh và đôi chân cong của cô. Cô phải nhận ra rằng chính sự thanh nhã mảnh dẻ là thứ quý nhất mà cô có. Cô phải luôn luôn mang nét đặc biệt hiếm có của cô ra để nhảy chứ không phải cố gắng nhận sự tán dương bằng mấy trò nhào lộn vặt vãnh kia."

Anna Pavlova vai Lise trong Pas de ruban từ Petipa/Ivanov/Hertel La Fille Mal Gardée. St. Petersburg, 1912

Thứ bậc của Anna tăng rất nhanh, và bà là một trong những niềm yêu thích của biên đạo múa bậc thầy Petipa. Bà trở thành soloist thứ hai vào năm 1902, Première Danseuse vào năm 1905 và cuối cùng là Prima Ballerina vào năm 1906, sau màn trình diễn lừng danh trong Giselle, khi mà bà đã thay đổi những bước nhảy của ballerina cho phù hợp với bà năm 1903 (mà chúng vẫn còn được biểu diễn trong vở này ở nhà hát Mariinsky cho đến tận ngày nay). Pavlova đã làm mới nhiều grand pas (bước nhảy lớn) cho ballerina, cũng như thêm vào những biến tấu (một trong số chúng là màn biến tấu nổi tiếng dành cho vai nữ chính đơn trong Paquita Grand pas classique của Petipa với âm nhạc của Riccardo Drigo, được biểu diễn lần đầu năm 1904). Bà đã nhận được rất nhiều sự tán dương từ những người mê ballet ở St. Petersburg. Đông đảo những người hâm mộ của bà tự gọi họ là Pavlovatzi.

Bởi prima ballerina assoluta (tước vị cao nhất của một ballerina) của Nhà hát Hoàng gia Mathilde Kschessinskaya có mang vào năm 1901, nên bà đã phải dạy Pavlova đóng vai Nikya trong La Bayadère. Kschessinskaya, dù không muốn tỏ ra kiêu ngạo, nhưng vẫn chắc chắn rằng Pavlova sẽ thất bại thảm hại, khi bà nhận thấy Pavlova có cổ chân và đôi chân nhỏ bé. Rốt cuộc, thay vì thế thì những khán giả lại bị hấp dẫn bởi dáng mỏng manh, thanh tao của Pavlova, bà đã thể hiện vai diễn một cách hoàn hảo, đặc biệt trong cảnh Vương quốc bóng tối.

Anna Pavlova trong Cái chết của con thiên nga

Bởi đôi chân của Anna không linh động, cho nên bà đã gia cố đôi giày nhảy bằng cách thêm vào một miếng gỗ cứng vào đế giày để nâng đỡ và tăng độ cong cho lòng giày. Ở thời điểm đó, việc này được coi như một "trò gian lận", bởi những ballerina đã được dạy là chính họ, chứ không phải đôi giày, mới cần phải giữ được trọng lượng cơ thể trên ngón chân. Ở trường hợp của Pavlova thì điều đó rất khó, với hình dạng đôi chân của bà và để có thể giữ thăng bằng trọng lượng trên ngón chân nhỏ của bà. Phương pháp của Pavlova qua thời gian đã trở thành cơ sở của những đôi giày nhảy hiện đại, khiến cho công việc đứng bằng ngón chân trở nên đỡ đau đớn và dễ dàng hơn với những bàn chân cong. Theo tiểu sử của Margot Fonteyn, kể rằng Pavlova không thích phát minh của mình bị nhìn thấy trong ảnh, cho nên bà thường xóa bỏ nó đi và bắt những người chụp ảnh phải sửa lại như thể là bà xuất hiện với một đôi giày nhảy bình thường[3].

Trong những năm đầu tiên ở đoànBallets Russes, bà làm việc với Serge Diaghilev. Đầu tiên bà được giao vai chính trong vở Con chim lửa của Mikhail Fokine, những sau đó đã từ chối, bởi bà không thể làm quen được với tổng phổ đầy mới lạ của Stravinsky, và vai diễn được giao cho Tamara Karsavina. Cả cuộc đời mình, Pavlova thường chỉ thích những "musique dansante" du dương của những nhà soạn nhạc lão làng như Cesare PugniLudwig Minkus, và thường ít để tâm đến những gì khác mà lạc ra khỏi phong cách âm nhạc ballet của thế kỷ 19.

Vào năm 1907, khi đã trở thành một ngôi sao, Pavlova bắt đầu đi lưu diễn vòng quanh Châu Âu tới Riga, Stockholm, Copenhagen, BerlinPraha[4]. Năm 1909, bà lại thực hiện một tour diễn lịch sử của Ballets Russes tới Paris. Những chuyến đi đã khơi lên lòng ham muốn tự do của Pavlova, bà muốn tự mình định đoạt số phận của mình. Năm 1913, bà rời khỏi Ballet Hoàng gia và trở thành một ca sĩ độc lập. Bà đã sáng lập công ty riêng của mình và đi biểu diễn trên khắp thế giới, với những tiết mục chủ yếu từ những tác phẩm rút gọn của Nhà hát Hoàng gia, được biên đạo một cách đặc biệt cho riêng bà. Nhà soạn ballet Cyril Johnson đã miêu tả "Những bước bourrée của cô ấy giống như một chuỗi trân châu.". Những chuyến lưu diễn này do chồng bà, Victor Dandré, quản lý. Trong suốt 15 năm cuối đời, bà đã đi như một người bộ hành với tổng cộng chiều dài hơn 350.000 dặm, một khoảng cách rất dài trước khi con người đi lại bằng máy bay[1]. Hầu hết thời gian này, bà sống ở trong xe lửa và khách sạn. Với những cộng sự như Laurent Novikov, Pierre Vladimirov và công ty của mình, bà đã đem ballet đi giới thiệu khắp mọi nơi và thu hút một lượng lớn công chúng đến với nghệ thuật ballet. Ở những vùng đất mới, bà lại học được những điệu múa dân tộc, từ Ba Lan, México cho tới Ấn ĐộNhật Bản. Những khán giả đã xem bà trình diễn đều ghi nhớ về dáng vẻ yêu kiều, những bước nhảy đầy chất thơ và ma lực lôi cuốn. Sir Frederick Ashton, biên đạo múa và đạo diễn của Nhà hát Hoàng gia Anh, đã trở thành một vũ công bởi ông bị tác động sâu sắc từ những màn trình diễn mà ông được xem khi còn là một đứa trẻ ở Lima, Peru[1].

Tác phẩm ngắn nổi tiếng nhất của bà chính là Cái chết của con thiên nga, được biên đạo bởi Michel Fokine vào năm 1905, dựa trên tác phẩm Thiên Nga trích từ Le Carnaval des Animaux (Vũ hội giả trang các con thú) của Camille Saint-Saëns.

Cái chết

Hạnh phúc chính xác là cái gì? Đối với tôi nó không phải dựa trên những tràng vỗ tay, mà là cảm giác thỏa mãn khi thực hiện một ý tưởng nào đó. Khi còn là một đứa bé chạy chơi quanh rừng thông, tôi đã nghĩ rằng thành công đem đến hạnh phúc. Những tôi đã nhầm. Hạnh phúc chỉ như một con bướm xuất hiện và đem lại cho ta niềm vui thích ngắn ngủi, nhưng rồi nó lại nhẹ nhàng vụt bay mất.

Trích tự sự của Anna Pavlova[1]

Khi lưu diễn tới La Hay, Hà Lan, chuyến tàu của bà đã gặp trục trặc và bị trật bánh nhẹ. Chỉ với một bộ pajama và một khăn quàng nhẹ, bà đã đi ra ngoài dọc suốt con tàu để xem điều gì đã xảy ra. Ba tuần sau bà mất vì bệnh viêm phổi, và cũng chỉ ba tuần nữa là sinh nhật thứ 50 của Pavlova. Bác sĩ có thể phẫu thuật cứu sống bà, nhưng điều đó sẽ khiến tổn thương đến xương sườn và khiến bà không thể biểu diễn. Bà đã nói: "Nếu tôi không thể múa thì tôi thà chết" và bảo chuẩn bị cho bà bộ trang phục thiên nga. Bà đã nói những lời cuối cùng khi cầm bộ trang phục: "Hãy chơi những nhịp điệu cuối cùng này thật nhẹ nhàng". Bà mất vào 23 tháng 1 năm 1931 tại khách sạn Des Indes ở La Hay.

Theo truyền thống ballet cũ, vào ngày mà đáng lẽ sẽ có buổi biểu diễn tiếp theo của bà, một đêm diễn vẫn được lên lịch, với chỉ một ánh đèn duy nhất chiếu vòng quanh sân khấu trống vắng như thể Anna Pavlova đang ở đó. Buổi lễ tưởng niệm đã được tổ chức ở Nhà thờ Chính thống Nga của London. Pavlova đã được hỏa táng, tro cốt của bà được đặt tại một phòng ở Golders Green Crematorium, trong chiếc bình bên cạnh đôi giày ballet của Anna. Năm 2001, người ta đã cố gắng di chuyển những gì còn lại của bà tới Nghĩa trang Novodevichy ở Moskva theo di nguyện của bà nhưng sau đó việc này đã gây nên nhiều tranh cãi[5].

Sau khi bà mất 6 năm, tên của bà đã được đặt cho Pavlova, một món tráng miệng bằng trứng và kem bắt nguồn từ Úc, xốp và nhẹ "như Pavlova vậy".

Tham khảo

  1. ^ a b c d Anna Pavlova, great Russian dancer Lưu trữ 2009-02-05 tại Wayback Machine, Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2008
  2. ^ Lewis, Jone Johnson. "Anna Pavlova Lưu trữ 2008-07-09 tại Wayback Machine". Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2008
  3. ^ Fonteyn, Margot, Pavlova, Portrait of a Dancer. Viking, 1984.
  4. ^ Anna Pavlova Biography (1881 - 1931)[liên kết hỏng]. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2008
  5. ^ Collett-White, Mike. "Row Escalates Over Anna Pavlova's Ashes Lưu trữ 2009-01-06 tại Wayback Machine". The St. Petersburg Times, 13 tháng 3 năm 2001. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2008.

Liên kết ngoài

Read other articles:

Олександр фон Цемлінськийнім. Alexander von Zemlinsky Основна інформаціяДата народження 14 жовтня 1871(1871-10-14)[1][2][…]Місце народження Відень, Австро-Угорщина[4]Дата смерті 15 березня 1942(1942-03-15)[1][2][…] (70 років)Місце смерті Ларчмонт, Мемаронек, Вестчестер, Нью-Йорк, США...

Kurt Nowotny (* 1. Dezember 1908 in Heynitz; † 1. Juni 1984) war ein deutscher Architekt, der in der DDR zahlreiche Bauten des Post- und Fernmeldewesens entwarf. Inhaltsverzeichnis 1 Leben und Wirken 2 Auszeichnungen 3 Darstellung Nowotnys in der bildenden Kunst 4 Schriften 5 Bauten (Auswahl) 6 Literatur 7 Weblinks 8 Einzelnachweise Leben und Wirken Hauptpostamt von Karl-Marx-Stadt (Chemnitz) in der Straße der Nationen 1967 Nowotny war der Sohn eines Schlossers. Nach seiner Schulzeit macht...

Galileo pada prangko Indonesia tahun 2009 Berikut ini adalah daftar tokoh yang ditampilkan pada prangko Indonesia. Soekarno, Presiden Indonesia pertama Abdul Muis, pahlawan nasional Indonesia Sultan Hasanuddin, pahlawan nasional Indonesia Suryopranoto, pahlawan nasional Indonesia Teuku Cik Di Tiro, pahlawan nasional Indonesia Teuku Umar, pahlawan nasional Indonesia K. H. Samanhudi, pahlawan nasional Indonesia Kapitan Pattimura, pahlawan nasional Indonesia Raden Ajeng Kartini, pahlawan nasiona...

بوريس باشانسكي معلومات شخصية الميلاد 2 نوفمبر 1982 (العمر 41 سنة)بلغراد, يوغسلافيا (الآن صربيا) الطول 1.80 م الإقامة  مالطا الجنسية صربيا  الوزن 74 كجم استعمال اليد اليد اليمنى الحياة العملية بداية الاحتراف 2001 مجموع الجوائز المادية $608,253 فردي سجل المسيرة 26 - 46 عدد الألقاب 0 أعلى

Bridge in Dubai, United Arab Emirates Al Maktoum Bridgeجسر آل مكتومThis is an aerial view of Al Maktoum Bridge (top) and Floating Bridge (bottom) over Dubai Creek in Dubai, United Arab Emirates on 8 May 2008. Deira is on the right and Bur Dubai is on the left. Port Saeed can be seen at the top of the imageCoordinates25°15′07″N 55°19′16″E / 25.2520°N 55.3212°E / 25.2520; 55.3212CarriesVehicleHistoryOpened1963Location Al Maktoum Bridge (in Arabic: ...

County in Texas, United States County in TexasWheeler CountyCountyWheeler County CourthouseLocation within the U.S. state of TexasTexas's location within the U.S.Coordinates: 35°24′N 100°16′W / 35.4°N 100.27°W / 35.4; -100.27Country United StatesState TexasFounded1879SeatWheelerLargest cityShamrockArea • Total915 sq mi (2,370 km2) • Land915 sq mi (2,370 km2) • Water1.0 sq mi (...

«13 nouvelles chansons» Студійний альбомВиконавець Джо ДассенДата випуску 1973 р.Записаний 1973 р.Жанр Шансон Поп-музикаТривалість 38:09Лейбл «CBS»Хронологія Джо Дассен Попередній «Joe» (1972) «Si tu t'appelles Mélancolie» (1974) Наступний «13 nouvelles chansons» (франц. 13 нових пісень) — сьомий успішний музични...

Manchester University PressFundación 1904Fundador James TaitPaís Reino UnidoDistribución NBN International (Reino Unido)Oxford University Press (América)Footprint Books (Australia)[1]​Turpin Distribution (resto del mundo)[2]​Género Libros de historia, política y derecho internacional, literatura y teatroSitio web[editar datos en Wikidata] Old Medical School en Coupland Street (fotografiado en 1908) - uno de los edificios que han albergado a la MUP La Manchester Uni...

Television channel Bollywood TimesBollywood Times logoCountryCanadaBroadcast areaCanadaHeadquartersToronto, OntarioProgrammingPicture format480i (SDTV)1080i (HDTV)OwnershipOwnerChannel ZeroHistoryLaunchedNovember 28, 2011; 12 years ago (November 28, 2011)ClosedJanuary 2018; 5 years ago (January 2018)LinksWebsitehttps://bollywoodtimes11.com Bollywood Times was a Canadian Hindi language specialty channel owned by Channel Zero. Bollywood Times broadcast Bollywood films ...

  هذه المقالة عن نظير الهيدروجين (²H). لمعانٍ أخرى، طالع هيدروجين (توضيح). ديوتيريوم ديوتيريوم القائمة الكاملة معلومات عامة الاسم، الرمز Hydrogen-2,2H or D النيوترونات 1 البروتونات 1 بيانات النويدة الوفرة الطبيعية 0.015٪ (الأرض) الكتلة الذرية للنظير 2.01410178 دالتون الغزل 1+ فائض الطا...

This article provides insufficient context for those unfamiliar with the subject. Please help improve the article by providing more context for the reader. (April 2018) (Learn how and when to remove this template message) Game in progress Shocking Duel is a game of pain endurance in which each player grips one of a pair of connected handles which deliver electric shocks of increasing intensity. The loser is the first player to release their handle.[1][2][3] Reception P...

Sir Richard Atkinson RobinsonPortrait of Richard Atkinson Robinson by William Quiller OrchardsonBorn(1849-10-16)16 October 1849WhitbyDied28 April 1928(1928-04-28) (aged 78)NationalityBritishOccupation(s)Chemist, druggist Sir Richard Atkinson Robinson DL (16 October 1849 – 28 April 1928) was a retail chemist and druggist, who later became a local politician and was the first member of the Municipal Reform Party (linked to the Conservatives) to lead the London County Council (1907–1908...

Subfamily of bees Nomiinae Dieunomia heteropoda Scientific classification Domain: Eukaryota Kingdom: Animalia Phylum: Arthropoda Class: Insecta Order: Hymenoptera Family: Halictidae Subfamily: Nomiinae Nomiinae is a subfamily of sweat bees in the family Halictidae. There are about 11 genera and at least 550 described species in Nomiinae.[1][2] Nomia universitatis Genera These 11 genera belong to the subfamily Nomiinae: Dieunomia Cockerell, 1899 i c g b Halictonomia Pauly, 1980...

Umayyad prince and legendary alchemist Khalid ibn Yazid خالد بن يزيدBornc. 668 CE (48 AH)Umayyad CaliphateDied704 CE (85 AH) or 709 CE (90 AH)WifeA'isha bint Abd al-Malik ibn MarwanDynastyUmayyadFatherYazid IMotherFakhita bint Abi Hashim ibn Utba ibn Rabi'aReligionIslamOccupationCaliphal adviser, military commander, poet, purported alchemist and patron of the sciences Khālid ibn Yazīd (full name Abū Hāshim Khālid ibn Yazīd ibn Muʿāwiya ibn ...

Nunsiatur Apostolik di OttawaGerbang gedung nunsiatur dengan kediaman di kejauhanKoordinat45°27′21″N 75°40′59″W / 45.455710°N 75.683119°W / 45.455710; -75.683119Koordinat: 45°27′21″N 75°40′59″W / 45.455710°N 75.683119°W / 45.455710; -75.683119LokasiOttawaAlamatTaman RockcliffeNunsius ApostolikLuigi Bonazzi Nunsiatur Apostolik untuk Kanada adalah perwakilan diplomatik Takhta Suci untuk Kanada. Nunsiatur tersebut dikepalai ...

American writer Sharon RichSharon Rich book jacket photoBorn (1953-06-11) June 11, 1953 (age 70)Los Angeles, CaliforniaOccupationAuthorWebsitewww.sharonrich.com Sharon Rich (born June 11, 1953) is an American author and film historian, best known for the biography Sweethearts about 1930s singing stars Jeanette MacDonald and Nelson Eddy.[1] Career She was close friends for many years with Jeanette MacDonald's older sister, actress Blossom Rock (aka Marie Blake).[2] Along w...

American physicist For the American population biologist, see Michael E. Hochberg. This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) This article's use of external links may not follow Wikipedia's policies or guidelines. Please improve this article by removing excessive or inappropriate external links, and converting useful links where appropriate into footnote references. (October 2023) (L...

English Franciscan theologian and philosopher (c.1185-1245) Not to be confused with Alex Hales or Alexander Ales. Alexander of HalesOFMDoctor Alexander of (H)ales by George Glover. Line engraving, mid 17th century.Bornc. 1185Hales, Shropshire, EnglandDied21 August 1245Paris, France (aged 59-60)Alma materUniversity of ParisEraMedieval philosophyRegionWestern philosophySchoolScholasticismMain interestsMetaphysics, theology Alexander of Hales (also Halensis, Alensis, Halesius, Alesius...

Untuk kegunaan lain, lihat Batubara dan Batu bara. Kabupaten Batu BaraKabupatenTranskripsi bahasa daerah • JawiباتوباراIcon gate Kabupaten Batu Bara LambangMotto: Sejahtera berjayaPetaKabupaten Batu BaraPetaTampilkan peta SumatraKabupaten Batu BaraKabupaten Batu Bara (Indonesia)Tampilkan peta IndonesiaKoordinat: 3°09′42″N 99°31′35″E / 3.16166°N 99.52652°E / 3.16166; 99.52652Negara IndonesiaProvinsiSumatera UtaraTanggal ber...

Handhebeldraisine Als Draisine wird ein meist vierrädriges oder dreirädriges Bahndienstfahrzeug bezeichnet, das, mit Muskel- oder mit Motorantrieb ausgestattet, als Hilfsfahrzeug zur Inspektion von Eisenbahnstrecken sowie zum Transport von Arbeitern und Werkzeug verwendet wird. Mitunter werden hand- oder pedalgetriebene Draisinen als Freizeitgeräte an Touristen vermietet, um stillgelegte Bahnstrecken zu befahren, die von Kommunen und/oder privaten Unternehmen dafür gepachtet wurden. Inhal...