Định Không
Một phần của loạt bài về | Thiền sư Việt Nam |
---|
|
|
- Pháp Hiền, Huệ Nghiêm, Thanh Biện
- Định Không, Đinh La Quý, Vô Ngại
- Pháp Thuận, Thiền Ông, Sùng Phạm
- Ma Ha, Pháp Bảo, Vạn Hạnh
- Định Huệ, Đạo Hạnh, Trì Bát
- Thuần Chân, Đạo Pháp, Huệ Sinh
- Minh Không, Bản Tịch, Thiền Nham
- Quảng Phúc, Khánh Hỉ, Giới Không
- Pháp Dung, Thảo Nhất, Trí Thiền
- Đạo Lâm, Chân Không, Tịnh Thiền
- Diệu Nhân, Viên Học, Viên Thông,
- Y Sơn
|
- Cảm Thành, Thiện Hội, Vân Phong
- Khuông Việt, Đa Bảo, Định Hương
- Thiền Lão, Viên Chiếu, Cứu Chỉ
- Bảo Tính, Minh Tâm, Quảng Trí
- Thông Biện, Đa Vân
- Mãn Giác, Ngộ Ấn, Biện Tài
- Đạo Huệ, Bảo Giám, Không Lộ
- Bản Tịnh, Bảo Giác, Viên Trí
- Giác Hải, Trí Thiền, Tịnh Giới
- Tịnh Không, Đại Xả, Tín Học
- Trường Nguyên, Tĩnh Lực, Trí Bảo
- Minh Trí, Quảng Nghiêm, Thường Chiếu
- Trí Thông, Thần Nghi, Thông Thiền
- Hiện Quang, Tức Lự, Ứng Thuận
|
- Bát Nhã, Ngộ Xá
- Ngô Ích, Hoằng Minh, Không Lộ
- Định Giác, Phạm Âm, Đạt Mạn
- Trương Tam Tạng, Chân Huyền, Đỗ Thường
- Hải Tịnh, Lý Cao Tông, Nguyễn Thức, Phạm Phụng Ngự
|
- Đạo Viên, Thông Thiền, Nhật Thiển
- Tức Lự, Chí Nhàn, Ứng Thuận
- Tiêu Dao, Tuệ Trung, Trần Thái Tông
- Trần Nhân Tông, Thạch Kim
- Pháp Loa, Hương Sơn, Pháp Cổ
- Huyền Quang, Cảnh Huy, Quế Đường
- Chân Nguyên, Hương Hải
- Thanh Từ
|
|
- Thủy Nguyệt, Thạch Liêm
- Tông Diễn, Từ Sơn, Tính Chúc
- Hải Điện, Khoan Dực, Thanh Đàm
- Minh Liễu, Đạo Sinh, Quang Lư
- Vô Tướng, Tâm Nghĩa, Mật Ứng
- Đức Nhuận, Duy Lực
|
Cổng thông tin Phật giáo | |
Thiền sư Định Không (730-808) họ Nguyễn, sư người hương Cổ Pháp, thuộc dòng vọng tộc. Thiền sư là một trong 3 thiền sư thuộc thế hệ thứ 8 thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi, tu hành ở chùa Thiện Chúng, hương Dịch Bảng, phủ Thiên Đức.
Cơ duyên và hành trạng
Khi tuổi đã nhiều, nhân đi dự hội ở chùa Long Tuyền, nghe Thiền sư Nam Dương giảng kinh, ông lĩnh ngộ tôn chỉ, quy y đạo Phật. Khoảng niên hiệu Đường Trinh Nguyên (785-805) sự dựng chùa Quỳnh Lâm ở bản hương. Khi xây chùa, thợ làm móng đào được một bình hương và mười chiếc khánh đồng. Sư sai người đem ra sông rửa sạch, một chiếc rơi xuống sông trôi liệng mãi đến khi chạm đất mới nằm im.
Sư giải thích rằng: Thập khẩu là chữ cổ, Thủy khứ là chữ Pháp. Còn thổ là chỉ vào hương ta. Nhân đó đổi tên hương Diên Uẩn thành hương Cổ Pháp. Sư có làm bài tụng như sau:
Rồi Sư đọc kệ rằng:
- Địa trình pháp khí
- Nhất phẩm tinh đồng
- Trị Phật pháp chi hưng long
- Lập hương danh chi Cổ Pháp
|
- Dịch thơ:
- Đất bày dâng pháp khí
- Phẩm chất thuần túy đồng
- Chuẩn bị cho Phật Pháp hưng long
- Đặt tên là Cổ Pháp
|
Rồi Sư lại đọc rằng:
- Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chung
- Lý hưng vương tam phẩm thành công.
|
- Dịch thơ:
- Pháp khí hiện ra mười cái chung đồng
- Họ Lý làm vua ba phẩm thành công.
|
Trước khi quy tịch, sư nói với đệ tử Thông Thiện: Ta muốn mở mang hương ấp, nhưng sợ ngày sau gặp nạn, tất có dị nhân đến phá hoại mạch đất của hương ta. Sau khi ta qua đời, ngươi khéo giữ đạo pháp của ta để sau gặp người họ Đinh thì truyền lại. Thế là ý nguyện của ta được toại thành.
Nói xong, sư cáo biệt rồi qua đời, thọ 79 tuổi. Năm đó là năm Mậu Tý, niên hiệu Đường Nguyên Hòa thứ ba (808).
Nguyên bản chữ Hán
Tham khảo
Chú thích
|
|